CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI VIỆT NAM: THÀNH TỰU VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH HIỆN NAY

Trên hành trình đi tìm đường cứu nước. Ngày 5/12/1912, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến New York. Khi đến thăm tượng Nữ thần Tự Do, Người đã viết “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen mới được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”
Vì vậy, giới và chính sách bình đẳng giới luôn được coi như một nguyên tắc hoạt động của Đảng, Nhà nước ta.

Những năm qua, việc thực hiện chính sách bình đẳng giới đã mang lại nhiều thành tựu quan trọng, góp phần làm giảm khoảng cách giới và giải quyết hài hòa lợi ích giới, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, cả về nhận thức và tổ chức thực hiện, cần được quan tâm nghiên cứu.

Tác giả PGS. TS, Võ Thị Mai, hàng đầu, thứ 3 từ phải sang

Về khái niệm

Giới là khái niệm phản ánh mối quan hệ xã hội – văn hóa giữa nam giới và nữ giới. “Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”.. “Giới là một cách để xã hội chia con người thành các phạm trù, các loại, và chỉ định cho mỗi loại một kiểu hành vi riêng, những trách nhiệm và quyền lợi riêng.

Bình đẳng giới dùng để chỉ việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.

Bình đẳng giới được hiểu là bằng nhau, ngang nhau và như nhau trên các lĩnh vực cơ bản như: Quyền con người, Quyền công dân, Tiêu chuẩn công chức, Cơ hội, Sân chơi bình đẳng giới giữa các đối tác (nam và nữ)…”

Bình đẳng giới, phân tích kỹ là nói đến sự thừa nhận, sự coi trọng ngang nhau đối với các đặc điểm giới tính và sự thiết lập các cơ hội ngang nhau đối với nữ và nam trong xã hội.

 Sự bình đẳng giới thể hiện ở nhiều mặt, ví dụ như: Nữ và nam bình quyền, tức là nam nữ có quyền ngang nhau trước pháp luật và các thông lệ xã hội,  Nữ và nam có cơ hội ngang nhau để tham gia, đóng góp và thụ hưởng các nguồn lực của xã hội trong quá trình phát triển, Nữ và nam có điều kiện cơ bản, ngang nhau để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình.

Bình đẳng giới là mục tiêu của một quốc gia nhằm mục đích tối đa hóa tiềm năng của cả nam giới và nữ giới, nhờ sử dụng tốt nhất các nguồn nhân lực sẵn có. Một bước phát triển mới trong nhận thức khoa học về giới là phát hiện ra mối quan hệ giữa công bằng giới và bình đẳng giới. Công bằng (sự hợp lý) không đồng nhất với bình đẳng (sự ngang bằng nhau), bởi vì có thể có tình trạng bất bình đẳng nhưng vẫn công bằng (như nam làm cấp trưởng, nữ làm cấp phó và ngược lại, nữ làm cấp trưởng, nam làm cấp phó, nhưng vẫn là hợp lý mà mọi người chấp nhận…). Không phải mọi sự bình đẳng giới đều là công bằng, bởi vì có thể có sự bình đẳng nhưng dẫn tới bất công bằng (như độc quyền là nam giới cũng như độc quyền là nữ giới trong tập thể lãnh đạo, quản lý…). Công bằng giới có thể là phương tiện để tiến tới sự bình đẳng giới.

Nói đến bình đẳng giới cần phân biệt, bình đẳng giới hình thức: là sự bình đẳng dựa trên cơ sở không phân biệt giới và không phân biệt giới tính, thường biểu hiện ở việc áp dụng các quy định, các chuẩn mực chung cho cả nam và nữ mà không tính đến những đặc trưng nhất định của nam và nữ. Ví dụ, về mặt hình thức quy định thì nam và nữ được bình đẳng trong cơ hội thăng tiến nghề nghiệp, nhưng trên thực tế do đặc điểm giới tính hoặc do điều kiện không được học tập liên tục, vì phải nghỉ sinh con nên phụ nữ không được hưởng lợi ích từ sự bình đẳng với nam giới về cơ hội thăng tiến, và bình đẳng giới thực chất: đây là sự bình đẳng giới trên cơ sở thừa nhận sự khác biệt về giới và sự khác biệt về giới tính đồng thời tính đến các nguyên nhân của sự bất bình đẳng giới để có thể áp dụng những cách ứng xử phù hợp nhằm đạt được sự bình đẳng giới trên thực tế.

Trên thực tế, nữ và nam khác nhau, trong không ít trường hợp phụ nữ bị thiệt thòi so với nam giới, thậm chí là bất bình đẳng giới sâu sắc, do đó cần phải áp dụng các biện pháp phân biệt nhất định để khắc phục những nguyên nhân gây ra tình trạng đó để tiến tới sự bình đẳng giới thực chất.

Chính sách là nói đến những chủ trương, kế hoạch và biện pháp cụ thể của Đảng, Nhà nước nhằm đạt mục đích nhất định về quốc kế, dân sinh, phát triển kinh tế – xã hội, thí dụ như chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, thu hút, sử dụng nhân tài….

Chính sách bình đẳng giới là chính sách giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới nhằm mục tiêu bình đẳng giới. Phân biệt chính sách về bình đẳng giới với việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng các quy phạm pháp luật.

Chính sách bình đẳng giới được quy định tại Điều 7, Luật Bình đẳng giới 2006: Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển, Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình, Áp dụng những biện pháp thích hợp để xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, Khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới, Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.

Về thành tựu

 Kết quả thực hiện Hiến pháp, Pháp luật, Chính sách về giới, bình đẳng giới

Việt Nam là một quốc gia có hệ thống Hiến pháp, Pháp luật, chính sách tiến bộ về giới, bình đẳng giới, với những thể chế được quy định, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã nêu rõ: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện”. Hiến pháp 1959, 1980, 1992 (bổ sung, sửa đổi năm 2001) tiếp tục kế thừa và phát triển quan điểm bình đẳng giới.

 Hiến pháp 1992, Điều 63 đã quy định “công dân nam nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và gia đình. Nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử đối với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nam nữ làm việc như nhau thì hưởng lương như nhau. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội”.

Hiến pháp 2013, Khoản 1 và khoản 3, Điều 26 quy định: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” và “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”.

Trong hầu hết trong các luật, bộ luật cũng quy định tương đối đầy đủ về giới, quyền bình đẳng giữa nam, nữ như: Luật Bình đẳng giới năm 2006; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015; Luật Cán bộ, công chức 2019; Bộ luật lao động 2019… Điều đó càng chứng tỏ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đến giới và thực hiện chính sách bình đẳng giới.

Luật Bình đẳng giới năm 2006 đã quy định các quyền bình đẳng của phụ nữ phản ánh trong các văn bản luật pháp đã có trước đây, đồng thời đề cao những nguyên tắc cơ bản: – Nam nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; – Nam nữ không bị phân biệt đối xử về giới; – Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới; – Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi luật pháp; – Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân.

Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015 đã khẳng định: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” (Điều 1).

“Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Luật này” (Điều 2).

“Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn chủ tịch Ban chấp hành trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần trăm tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ…” (Điều 8a).

Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”.

Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu về giới và thực hiện chính sách bình đẳng giới “hiện dẫn đầu các nước châu Á và đứng thứ 18 trên thế giới về tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội. Số lượng nữ Chủ tịch và tương đương, Phó Chủ tịch cấp tỉnh tăng 50% so với nhiệm kỳ trước “Chỉ số phát triển giới (GDI) của Việt Nam tăng từ 0,668 (năm 1998) lên 0,708% (năm 2004), đứng thứ 80/136 quốc gia và hầu như không có sự chênh lệch với chỉ số phát triển con người…”.

So với thế giới, Việt Nam đã có những phát triển khá tốt về thực hiện bình đẳng giới: “tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay đã tăng lên mức 26,72%, cao hơn mức trung bình toàn cầu là 22,3%” và “Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, năm 2016 Việt Nam đứng thứ 65/144 quốc gia về chỉ số khoảng cách giới (tăng 18 bậc so với năm 2015)” và trước đó, năm 2014 Việt Nam cũng được đánh giá là đứng thứ ba trong khu vực ASEAN và thứ 47 trong 187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng về thực hiện bình đẳng giới.

Theo Báo cáo Phát triển con người năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đang ở gần mức trần của nhóm các nước có HDI ở mức trung bình (xếp thứ 118 trong tổng số 189 nước). Với chỉ số phát triển giới ở mức 1,003, Việt Nam thuộc nhóm dẫn đầu trong số 5 nhóm gồm 166 nước trên toàn thế giới, xếp thứ 68 trong số 162 nước về chỉ số phát triển giới. Đặc biệt, Việt Nam nằm trong nhóm 1/3 nước đứng đầu thế giới về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội…..

Bình đẳng giới là sự đối xử công bằng về mặt luật pháp, cũng như vị thế xã hội giữa nam và nữ giới. Những thành tựu đã đạt được trong thực hiện chính sách bình đẳng giới của Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề đang đặt ra trong việc thực hiện chính sách bình đẳng giới như, vẫn còn chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ khi cùng một vị trí công việc như nhau, cơ hội để phụ nữ tiếp cận những việc làm có thu nhập cao vẫn thấp hơn so với nam giới, lao động nữ chưa được đánh giá cao như lao động nam, là đối tượng dễ bị rủi ro và tổn thương hơn khi doanh nghiệp có nhu cầu cắt giảm nhân lực. Hay ở góc độ chính trị – xã hội, tỷ lệ làm quản lý, lãnh đạo của nữ giới vẫn thấp hơn nam giới, dao động trên dưới 10%.

Bình đẳng giới thực chất là sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trên thực tế. Đây chính là mục đích mà hiến pháp và luật pháp Việt Nam hướng tới từ lâu mà không cần đợi tới khi có Luật Bình đẳng giới. Nhưng điều đáng quan tâm là, giữa hiến pháp, luật pháp với việc thực thi chúng còn có một khoảng cách khá xa. Hay nói cách khác, chúng ta vẫn chưa có bình đẳng giới thực chất. Trong cấu trúc lao động xã hội và trong cấu trúc lãnh đạo, quản lý vẫn có những biểu hiện cho thấy tình trạng bất bình đẳng giới về thực chất. Mặc dù phụ nữ tham gia gần bằng nam giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng so với nam giới vẫn còn ít nữ làm cán bộ lãnh đạo, quản lý; ít nữ có vị trí nắm giữ và thực thi quyền lực trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Cũng phải thừa nhận rằng, việc thực hiện các chính sách bình đẳng giới ở một số nơi còn nhiều bất cập, hạn chế. Nghị quyết số 11-NQ/TW cũng đã chỉ rõ: “Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về công tác phụ nữ, cán bộ nữ chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ”. Nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện các chính sách bình đằng giới chưa quán triệt quan điểm giải phóng phụ nữ và luật Bình đẳng giới. Thí dụ, Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2011 của Chính phủ quy định phải có 5 năm công tác trở lên mới được cử đi đào tạo sau đại học cho cả nam và nữ là chưa tính đến yếu tố đặc thù giới. Sau khi đi làm khoảng 5 năm, người phụ nữ thường bắt đầu ổn định công việc, lập gia đình, sinh con và nuôi con nhỏ. Vì vậy, đây không phải là quy định bình đẳng nam và nữ mà là quy định không tính đến yếu tố đặc thù giới.

Do vậy, để đạt được bình đẳng giới thực chất cần phải thực sự nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện hiến pháp, luật pháp, pháp lệnh… liên quan đến giới và bình đẳng giới.

 Kết quả thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và vì sự phát triển bền vững

Giới và chính sách bình đẳng giới luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm. Từ Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới” đến Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới nhấn mạnh: Xây dựng và sửa đổi, hoàn chỉnh các pháp luật, chính sách xã hội có liên quan đến phụ nữ và lao động nữ….

Đặc biệt là, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó chỉ rõ: Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng; đồng thời xác định: Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ.

Ngày 22/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1241/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2015, với mục tiêu tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức nhằm thúc đẩy toàn xã hội thay đổi hành vi thực hiện bình đẳng giới; từng bước thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị thế của người phụ nữ trong một số lĩnh vực còn bất bình đẳng hoặc nguy cơ bất bình đẳng giới cao, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020…Ngày 3/3/2021 Nghị quyết số 28/NQ-CP của Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 với mục tiêu tổng quát “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”.

Có thể nói, việc triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, chính sách, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới ở nước ta những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Theo thống kê, tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng khóa sau đã tăng hơn khóa trước, nếu khóa XI, tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng là 8,62%, các Đảng bộ trực thuộc Trung ương 11,4%, cấp huyện 14% và cấp cơ sở là 18,1% thì tới khóa XII, tỷ lệ tương ứng là 10%; 13,3%; 14,3% và 19,07%. Nhiệm kỳ 2015 – 2020, lần đầu tiên có 3 đồng chí nữ là Ủy viên Bộ Chính trị (chiếm tỷ lệ 15,78%). Tỷ lệ nữ tham gia Ban Bí thư đạt 14,3%. Tại Đảng bộ khối ở Trung ương có 10,7% nữ tham gia Ban Chấp hành và 19,4% tham gia Ban Thường vụ; cấp tỉnh có 14,2% nữ tham gia Ban Chấp hành Tỉnh ủy và 10,9% trong Ban Thường vụ tỉnh ủy. Cả nước hiện có 8/63 nữ bí thư tỉnh ủy, 14 nữ phó bí thư tỉnh ủy.

Về tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp: tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIII đạt 24,2%; tới khóa XIV đạt 27,31%, tăng 3,11% so với khóa XIII và lần đầu tiên Việt Nam có nữ Chủ tịch Quốc hội. Tỷ lệ nữ đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 -2021 đều tăng so với nhiệm kỳ 2010 – 2015 ở cả 3 cấp tỉnh, huyện và xã. Nếu nhiệm kỳ 2010 – 2015, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh là 25,17%, cấp huyện 24,62%, cấp xã 21,71% thì đến nhiệm kỳ 2016 – 2021, tỷ lệ này tương ứng là 26,54%, 27,85% và 26,59%.

Nhiệm kỳ 2016 – 2021, có 16/63 tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh từ 30% trở lên; 26/63 tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh từ 20 – 30%; cá biệt có 07/63 tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh dưới 15%. Hiện cả nước có 08/63 nữ chủ tịch HĐND cấp tỉnh, 31/63 nữ phó chủ tịch HĐND cấp tỉnh. Có 08/53 tỉnh, thành phố (trừ 10 tỉnh, thành phố thí điểm không tổ chức HĐND cấp huyện) có tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp huyện từ 30% trở lên; 37/53 tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp huyện từ 20 – 30%; 43/63 tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã từ 20 – 30%.

Tính đến hết tháng 7/2020, tỷ lệ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo nữ đạt 36,6% (11/30), trong đó có 11/16 nữ thứ trưởng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Đến cuối nhiệm kỳ 2011- 2015, tỷ lệ UBND các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ ở cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã lần lượt là: 32,14%; 32,64%; 21,95%. Tính đến tháng 7/2020, có 2/63 nữ chủ tịch UBND cấp tỉnh, 19/204 nữ phó chủ tịch UBND cấp tỉnh.

Báo cáo của Chính phủ bổ sung việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2018 và 6 tháng đầu năm 2019 cho thấy, tính đến hết tháng 6 năm 2019, tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội là 27,2% (132/485), có 32,30% đại biểu nữ là người các dân tộc thiểu số (41/132); Tỷ lệ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo nữ đạt 47% (14/30), trong đó Văn phòng Chính phủ lần đầu tiên có Phó Chủ nhiệm là nữ.

Kết quả đại hội Đảng bộ các tỉnh nhiệm kỳ (2020 – 2025) cũng ghi nhận nữ bí thư cấp ủy nhiều nhất từ trước đến nay, gồm 9 người (13,85%). Đây là tỷ lệ cao hơn nhiều so với nhiệm kỳ trước. Nữ Bí thư Tỉnh ủy thời điểm hoàn thành bầu cử nhiệm kỳ (2015 – 2020) chỉ có 3 người (là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, Ninh Bình, An Giang). Trong số 200 Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII vừa trúng cử, có 19 ủy viên nữ, đạt 9,5%. Trong 19 nữ ủy viên Trung ương Đảng, có 18 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết.

Dự thảo Báo cáo của Chính phủ bổ sung việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2018 và 6 tháng đầu năm 2019: có 14/128 nữ Phó Bí thư, 8/63 Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, 31 nữ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; 18 nữ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Hiện nay, số liệu về tỷ lệ nữ lãnh đạo chủ chốt ở ủy ban nhân dân các cấp và tỷ lệ cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội có từ 30% nữ trở lên có cán bộ chủ chốt là nữ được Bộ Nội vụ tổng hợp hàng năm, nên chưa có số liệu báo cáo cập nhật đến tháng 6/2019.

Không chỉ chiếm tỷ lệ cao trong cơ quan lập pháp, phụ nữ Việt Nam còn tham gia, nắm giữ những vị trí quan trọng trong Quốc hội, các cấp ủy đảng, HĐND, UBND… “Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở nước ta liên tục tăng lên trong thời gian qua và duy trì ở mức cao. Từ Quốc hội khóa I chỉ với 10 nữ đại biểu, đến nay, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Khóa XIV là 26,72% – một tỷ lệ khá cao so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ này, Việt Nam lần đầu tiên có Chủ tịch Quốc hội và 3 ủy viên Bộ Chính trị là nữ; ở cấp tỉnh có 06 Bí thư, 13 Phó Bí thư, 08 Chủ tịch, 30 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, 19 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, 16 phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội là nữ, cùng nhiều nữ cán bộ đảm nhiệm các vị trí trọng trách ở Trung ương và địa phương. Đó là minh chứng sinh động trong việc thực hiện chính sách bình đẳng giới của Việt Nam”.

Những bất cập, hạn chế và nguyên nhân

Có thể nói, việc thực hiện chính sách bình đẳng giới đã có thành tựu đáng kể, song vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, nhiều chỉ tiêu đặt ra trong các nghị quyết, chiến lược, chính sách vẫn chưa đạt được. Nghị quyết số 11/NQ-TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đưa ra chỉ tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Ðảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới” nhưng đến nay vẫn chưa đạt được “Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý có tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ, nguồn cán bộ nữ hẫng hụt, ở một số lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ nữ sụt giảm”.

Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 đã đặt ra 7 mục tiêu và mục tiêu đầu tiên là tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Trong đó, chỉ tiêu 1 của mục tiêu này là: Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016 – 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 – 2020 trên 35%. Tuy nhiên, các con số trong bảng thống kê dưới đây cho thấy thực tế diễn biến rất chậm chạp:

Biểu 1: Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, các nhiệm kỳ
(Đơn vị tính: %)

(Nguồn: Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam)

Bảng thống kê trên đây cho thấy, trong đó tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy cấp xã nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã đạt mức gần 20% (tăng khoảng 2% so với nhiệm kỳ trước đó). Tuy nhiên, tỷ lệ nữ cán bộ trong cơ quan trọng yếu nhất của đảng ở cấp trung ương cũng vẫn rất thấp. Tham gia cấp ủy Bộ Chính trị, nữ ủy viên Bộ Chính trị mới chỉ đạt 3/19 ủy viên và tham gia Ban chấp hành Trung ương đảng là 15 ủy viên nữ (đạt 7,8%) so với ủy viên nam là 166 người (đạt 92,2%). Các con số thống kê trên đây cho thấy, chúng ta còn phải nỗ lực, phấn đấu trong thời gian khá dài nữa mới có thể đạt chỉ tiêu mà Nghị quyết số 11/NQ-TW và Chiến lược quốc gia 2011 – 2020 đã đề ra là 25% phụ nữ tham gia cấp ủy đảng.

Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp:

Nhiệm kỳ năm 2016 – 2021, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 25% nhưng có 3 tỉnh không có nữ đại biểu Quốc hội (Quảng Nam, Tây Ninh, Thừa Thiên – Huế) và 25 tỉnh có tỷ lệ nữ đại biểu dưới 20%. Thực tế này cho thấy, mục tiêu của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới vẫn chưa có bước phát triển vững chắc và cũng chưa đồng đều trong các địa phương của cả nước. Tuy nhiên, nhiệm kỳ Quốc hội 2016 – 2021, lần đầu tiên Việt Nam có đại biểu nữ nắm giữ vị trí Chủ tịch Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đây là tín hiệu đáng mừng cho việc hiện thực hóa các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về đảm bảo quyền tham chính của phụ nữ.

– Tỷ lệ phụ nữ là thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ nhiệm Ủy ban trong Quốc hội qua các nhiệm kỳ:

Tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và HĐND các cấp, trong nhiệm kỳ 2016 – 2021 tăng hơn nhiệm kỳ trước, tuy nhiên tỷ lệ trên vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong Chiến lược quốc gia 2011 – 2020 là trên 35% và ở các vị trí chủ chốt như Chủ nhiệm/Phó Chủ nhiệm Ủy ban, cán bộ chuyên trách, tỷ lệ phụ nữ vẫn ít hơn nhiều so với nam giới.

Trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 đề ra chỉ tiêu: “2. Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ” và chỉ tiêu “3. Phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 100% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động…”. Như vậy, những con số đặt ra trong chỉ tiêu 2 và chỉ tiêu 3 của Chiến lược quốc gia 2011 – 2020 cũng chưa đạt được hoặc chưa xác định đạt được bao nhiêu % trên thực tế.

Ngoài ra, còn thiếu những cơ chế, chính sách, điều kiện, môi trường để thực thi chính sách về bình đẳng giới có hiệu quả. Từ khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới (quy định một số văn bản luật pháp chính sách chưa thống nhất còn chung chung, trung tính, ưu tiên cho nữ giới, chưa nhạy cảm giới….). Về thể chế, bộ máy, còn khoảng cách giữa chủ trương, chính sách và thực thi chính sách về bình đẳng giới …Về văn hóa: những rào cản văn hóa truyền thống, tập tục phong kiến, định kiến giới, tư tưởng “trọng nam khinh nữ”…Trong tiếp cận các nguồn lực trong thực hiện bình đẳng giới…

Đánh giá việc thực hiện chính sách về bình đẳng giới, dù đã có nhiều chính sách được ban hành, trong đó có Luật Bình đẳng giới (ban hành năm 2006) nhưng việc triển khai Luật chưa hiệu quả. Nguyên nhân hạn chế là do, nhận thức về giới, bình đẳng giới chưa đúng, dẫn đến quá trình triển khai tổ chức thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Một số quy định trong Luật Bình đẳng giới còn chung chung, mang tính định hướng, khó triển khai trong thực tế; một số quy định hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành; chưa có sự thống nhất giữa Luật Bình đẳng giới và các luật chuyên ngành. Việc thực hiện quy định lồng ghép giới đạt kết quả chưa cao; việc thực hiện còn hình thức, chất lượng chưa cao, thiếu các thông tin số liệu để phân tách giới.

Trong khi đó, tư tưởng định kiến giới còn khá phổ biến trong nhân dân, kể cả trong một bộ phận cán bộ, công chức. Còn đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác bình đẳng giới thiếu về số lượng, chủ yếu là kiêm nhiệm, hạn chế về kiến thức giới, kỹ năng lồng ghép giới, thiếu các chuyên gia có kiến thức, kỹ năng lồng ghép giới trong các ngành chuyên môn…. Tất cả những bất cập, hạn chế nêu trên cần có đồng bộ các giải pháp thực hiện có hiệu quả.

Về các giải pháp

Chính sách bình đẳng giới luôn là vấn đề quan trọng của bất cứ quốc gia, dân tộc nào. Sự phát triển của đất nước có thịnh vượng bao nhiêu, nhưng nếu không quan tâm chú ý đến vấn đề giới, các chính sách công bằng, bình đẳng giới, thì thành tựu của sự phát triển ấy cũng không thể ổn định, bền vững, thậm chí nó còn có thể kìm hãm sự phát triển. Những giải pháp về đổi mới thể chế, cơ chế, khung luật pháp, chính sách bình đẳng giới cũng nhằm góp phần vào sự phát triển lành mạnh, bền vững đất nước.

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về giới, bình đẳng giới.

Trước hết, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền về giới, bình đẳng giới. Thường xuyên đổi mới cách thức tuyên truyền, vận động để làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành động về giới, BĐG. Nội dung, hình thức tuyên truyền, vận động phải đa dạng, phong phú, chú trọng nâng cao kỹ năng, năng lực giới cho phụ nữ. Triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, các chính sách liên quan đến giới, bình đẳng giới. Đưa nội dung giáo dục về giới, BĐG vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong các trường, học viện chính trị và các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân… tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của phụ nữ.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về giới, bình đẳng giới; rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật và chính sách có nhiều bất lợi đối với phụ nữ và nam giới. Ví dụ như, phong trào phụ nữ thi đua 2 giỏi “giỏi việc nước – đảm việc nhà” đến nay vẫn được xem là của nữ giới, cần điều chỉnh phong trào này bằng cách mở rộng các dịch vụ giúp việc gia đình cho phụ nữ và yêu cầu nam giới tích cực tham gia trực tiếp vào phong trào “toàn dân giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Đồng thời, nghiên cứu ban hành những chính sách quy định pháp luật phù hợp với từng nhóm đối tượng phụ nữ và nam giới, đảm bảo tốt hơn quyền lợi chính đáng của cả hai giới. Xây dựng các chính sách đặc thù về giới gắn với bảo vệ bền vững môi trường, an sinh xã hội, giáo dục, y tế, sức khỏe gia đình… tạo cơ hội để phụ nữ có thể tham gia vào lĩnh vực chính trị và đời sống xã hội. Khi hệ thống an sinh xã hội tốt, các vấn đề về y tế, sức khỏe, vệ sinh môi trường được đảm bảo sẽ giảm gánh nặng chăm sóc gia đình cho phụ nữ, tạo điều kiện tốt hơn cho phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý.

Ba là, gắn việc thực hiện chính sách bình đẳng giới với xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và cả nước. Cần triển khai một Đề án thực hiện các chính sách về bình đẳng giới do Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng giao cho các cấp, các ngành thực hiện một cách tổng thể. Trong đó, cần chú trọng đến việc thực thi các mục tiêu, chiến lược, biện pháp về bình đẳng giới từ trung ương đến cơ sở; bao gồm cả việc cung cấp các quy định pháp luật có liên quan đến bình đẳng giới, để làm rõ những khía cạnh đặc thù về giới cần quan tâm trong quá trình thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới. Thực hiện lồng ghép giới trong các chính sách lao động, tiền lương, an sinh xã hội, giảm nghèo, giáo dục, đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm lồng ghép quan điểm bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi văn bản quy phạm pháp luật. Lồng ghép các chính sách bình đẳng giới trong các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường giới thiệu các quy định pháp luật về bình đẳng giới, thông qua hình thức tuyên truyền tới tận cơ sở.

Bốn là, tiếp tục kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy, thể chế lãnh đạo, quản lý, quản trị xã hội gắn với yếu tố giới và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới, Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ. Đổi mới và phát huy hơn nữa vai trò, vị thế của các tổ chức xã hội (trong đó bao hàm cả tổ chức chính trị – xã hội; tổ chức xã hội – nghề nghiệp,…) trong việc thực thi các chính sách bình đẳng giới. Thực hiện tốt phương châm: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trong hoạch định, thực hiện, điều chỉnh hoặc thay đổi chính sách BĐG ở Việt Nam hiện nay.

Năm là, xây dựng mô hình hài hoà giới trong hệ thống chính trị, cần cân đối tỷ lệ và điều chỉnh tỷ lệ giữa nam và nữ trong tập thể lãnh đạo, quản lý (thay nhau làm trưởng như đã được thử nghiệm thành công ở Đà Nẵng, Đăk Lắk,…): 1 trưởng nữ thì cân đối số phó là nam nhiều hơn nữ và luân phiên theo nhiệm kỳ, mô hình này mới có ở cấp phường như phường Nhân Chính, quận Thanh Khê (Đà Nẵng), tránh tình trạng nam/nữ độc quyền, làm mất cân đối về giới trong một tập thể lãnh đạo, quản lý. Ở đây không có vấn đề bình đẳng mà có vấn đề công bằng quyền lực giới.

Sáu là, đưa quan điểm giới vào các bước của chu trình hoạch định chính sách/kế hoạch, tăng số lượng phụ nữ vào các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực chính trị, tham gia lãnh đạo, quản lý và ra quyết định ở mọi cấp. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách giới/bình đẳng giới ở góc độ chuyên ngành và liên – xuyên ngành về Xã hội nói chung về Giới nói riêng. Bình đẳng giới là yêu cầu lý tưởng hơn là thực tế; trong hiện thực đời sống cái có thế đạt được chỉ là công bằng giới, mà đây cũng là một dự án bất tận xét trên quy mô toàn nhân loại, toàn dân tộc quốc gia…. Đây là nghiên cứu rất độc, rất lạ, rất hay, và rất nghiêm túc. Tuy nhiên rất hạn chế do thiếu Tiếp cận đa chiều, đa diện, đa dạng; thiếu Tiếp cận tổng – tích hợp, liên – xuyên ngành. Hướng khắc phục: i)- Mở rộng tầm nhìn bằng cách bổ sung nan đề Nam tính hoặc/và Nữ tính, Nam giới hoặc/và Nữ giới, Nam quyền hoặc/và Nữ quyền, Nam trị hoặc/và Nữ trị, ii)- Đào sâu bản tính kép của Giới tính (Sex): Tự nhiên-Sinh vật hoặc/và Con Người-Nhân tính, bản chất kép của Giới (Gender): Tự nhiên- Sinh giới hoặc/và Văn hóa-Văn minh, III)- Nâng cao trình độ lý luận & khoa học bằng cách chuyển từ Nam học, Nữ học sang Giới học, gồm: a)- Học Giới, b)- Giới ký, c)- Giới học chuyên ngành, chủ yếu là các Khoa học về Giới, iv)- Giới học liên – xuyên ngành dựa trên Tam học cơ bản: Khoa học giới, Triết học giới, Đạo học giới.

PGS. TS, Võ Thị Mai và TS Trần Văn Huấn/Tạp chí Đông Nam A

Tài liệu tham khảo

Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Phương Thảo, Ngô Thị Tuấn Dung (2009), Kết quả nghiên cứu định tính về nữ lãnh đạo khu vực nhà nước ở Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu gửi UNDP, Hà Nội.

Mai Huy Bích (2009), Giáo trình Xã hội học về giới, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

Chính phủ (2009), Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 1/12/2009 về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TƯ ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

Đảng đoàn Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2009), Báo cáo công tác cán bộ nữ sau 2 năm thực hiện nghị quyết 11-NQ/TƯ về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

Nguyễn Đức Hạt (chủ biên) (2007), Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Tô Duy Hợp (20070, Khinh – Trọng: Một quan điểm lý thuyết trong nghiên cứu triết học và xã hội học”, NXB Thế giới, Hà Nội.

Lê Ngọc Hùng (2011), Đánh giá thực hiện chính sách về bình đẳng giới dựa trên bằng chứng, Hà Nội.

Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình Xã hội học về giới, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

Trung tâm nghiên cứu phụ nữ (Trường cán bộ phụ nữ Trung ương) (2012), Báo cáo kết quả nghiên cứu “Đề xuất một số giải pháp tăng tỷ lệ lãnh đạo nữ trong các bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương, thuộc Dự án “Tăng cường tỷ lệ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo”, Hà Nội.

Viện Gia đình và Giới, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, UNIFEM (2009), Kết quả nghiên cứu đề tài: Đánh giá năng lực của các cơ quan nhà nước thực hiện Luật Bình Đẳng giới và Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Hà Nội.

Võ Thị Mai (2011), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài “Đánh giá chính sách về bình đẳng giới dựa trên bằng chứng thực địa”, một trong 10 đề tài thuộc Dự án UNDP-BNG: “Nâng cao năng lực lãnh đạo cho phụ nữ trong khu vực Nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, 2009-2012 (EOWP).