LỜI KỂ CỦA PHI CÔNG MỸ VỀ B-52 BỊ HỦY HOẠI NẶNG RA SAO?

Lưu trữ và hồi ức của các phi công Mỹ cho thấy một số chiếc B-52 bị hủy hoại nặng trong không chiến trên bầu trời Hà Nội năm 1972, cố bay về được đến hậu cứ để rồi đâm đầu xuống đất mà không đáp được xuống đường cất hạ cánh. Sân bay Utapao của Mỹ ở Thái Lan chứng kiến hai trường hợp như vậy, vào các ngày 26 và 27-12-1972.

Ngày 26-12

Một cuốn sách “kinh điển” ở Mỹ được trích dẫn nhiều, là Linebacker II: Nhìn từ căn cứ không quân Anderson Đảo Guam (Linebacker II: A VIEW FROM THE ROCK) của các tác giả là cựu phi công B-52 tham chiến ở Việt Nam, đó là Chuẩn tướng James McCarthy và Trung tá George Alison.    

Tướng không quân McCarthy, khi là Đại tá, từng chỉ huy biên đội đánh phá Hà Nội trong Linebaker II hồi tưởng:

... Vài phút sau, khi chúng tôi đang khởi hành đến không phận Hà Nội ngay lập tức, có một vụ nổ rực trời phía sau sườn trái của máy bay, sáng bừng cả bầu trời hàng dặm xung quanh. Một chiếc B-52D (mang mật hiệu Ebony 2) đã bị trúng đạn và nổ tung giữa không trung. Trong giây lát, bộ đàm im bặt. Mọi người nghe thấy những tiếng bíp khẩn cấp được tự động kích hoạt khi một chiếc dù được mở ra. Có thể thấy rõ ràng hai hoặc có thể là ba, những tiếng bíp khác nhau phát ra. Một phép lạ xảy ra, khi bốn trong số phi hành gia thuộc biên chế của Căn cứ Không quân Kincheloe, Michigan đã thoát khỏi máy bay, trở thành tù binh của Bắc Việt. Sau đó, có một cuộc gọi từ một pháo đài bay khác, mang mật danh Ash 1 nói rằng, họ đã bị trúng đạn và đang cố bay ra biển. Phi cơ này báo cáo rằng đang bị mất độ cao và đang gặp khó khăn trong việc điều khiển máy bay. Lực lượng tìm cứu nạn của hải quân Mỹ mang mật danh Vương miện hồng (Red Crown) bắt đầu phái các máy bay F-4 đến hộ tống chiếc máy bay ném bom bị bắn hỏng đến được một nơi an toàn. Khi chúng tôi rút lui xa hơn khỏi vùng không kích mục tiêu, xạ thủ báo cáo thêm một loạt tên lửa SAM bắn về phía chúng tôi. Bill (Thiếu tá William Stocker, Chỉ huy biên đội dẫn đầu đội hình B-52 trong đợt không kích này, Stocker từng lái F-4 không kích thời kỳ đầu chiến tranh phá hoại chống miền Bắc và đã đối mặt với SAM, vào nửa đầu năm 1972 chuyển loại sang lái B-52, đã tham gia không kích Hải Phòng) ra lệnh cho đội hình tiến hành các thao tác tránh tên lửa. Thời gian tưởng chừng như vô tận, trước khi xạ thủ báo cáo rằng các tên lửa đều đã vượt qua nóc máy bay và đã phát nổ. Đó là cuộc chạm trán cuối cùng của chúng tôi với SAM vào đêm đó.

Lời kể của phi công Mỹ về B-52 bị hủy hoại nặng ra sao?

Máy bay B-52 của Mỹ tại căn cứ Utapao (Thái Lan) trong chiến tranh Việt Nam. Ảnh: Flickr. 

Đột nhiên, một trong các biên đội B-52 thuộc làn sóng của đội hình báo cáo có MIG tiếp cận và yêu cầu tiêm kích hỗ trợ. Red Crown, đang làm việc với Ash 1, bắt đầu cấp tọa độ cho những chiếc F-4 khác đến với các pháo đài bay đang có thể bị tấn công. Tôi đã ra lệnh tắt tất cả đèn hiệu quay phía trên máy bay và tất cả đèn đuôi. Khi những chiếc F-4 đến gần, chiếc MIG hẳn đã đình chỉ cuộc tập kích... và biến mất khỏi radar của các xạ thủ. Đây có vẻ là một trong những trường hợp nữa mà MIG làm bộc lộ lực lượng B-52 cho các xạ thủ SAM. Cũng có ý kiến rằng trong khi làm việc này, nếu MIG nhìn thấy cơ hội để bắn hạ nhanh một máy bay Mỹ, họ sẽ cố gắng lẻn vào để đạt được phạm vi xạ kích và bắn tên lửa. Hoặc là lướt qua (để làm rối loạn) đội hình máy bay Mỹ (cho radar phát hiện) rồi biến mất. 

Trên đường quay về phía Nam, chúng tôi có thể nghe thấy các cuộc trò chuyện của Ash 1. Nó đã ra được tới biển, hiện đang di chuyển về phía Nam. Cứu trợ hải quân Red Crown đã gửi cho phi đoàn này vị trí những sân bay của phe Mỹ trong khu vực (để Ash 1 có thể đáp xuống). Tuy nhiên, Cơ trưởng Jim Turner báo cáo rằng chiếc B-52 này chắc vẫn bay được và anh ta sẽ cố gắng đáp xuống sân bay Utapao. Có lẽ trong không gian vô tuyến lúc đó vài nghìn người Mỹ đang lắng nghe và cầu nguyện anh ta sẽ thành công. Jim Turner gần như đã làm được. Chiếc B-52 bị rơi ngay bên ngoài đường băng tại Utapao, một mất mát bi thảm. Chỉ có pháo thủ và phi công số 2 sống sót sau vụ va chạm; và phi công phụ lẽ ra không sống sót được nếu không có sự cố gắng của Đại úy Brent Diefenbach, lái chiếc B-52 vừa hạ cánh chỉ vài phút trước đó. Diefenbach đã đến được hiện trường gặp nạn, nơi Diefenbach kéo được Trung úy Bob Hymel khỏi đống đổ nát. Thượng sĩ xạ thủ Spencer Grippin đã tự xoay xở để thoát khỏi xác tàu bay đang bốc cháy, phần đuôi của nó bị vỡ ra khi va chạm.

Ngày 27-12

Hồi tưởng về Chiến dịch Linebacker (Operation LINEBACKER II: A Retrospective), trang 37, tài liệu của Trung tâm các lựa chọn chiến lược của Mỹ (Strategic Alternatives Center) ra tháng 12 năm 2017, có đoạn viết:

... Phòng không Bắc Việt phóng loạt tên lửa SAM, bắn rơi hai chiếc B-52. Một trong số hai chiếc pháo đài bay xấu số đã cố xoay xở trên không đủ lâu để quay trở lại được Utapao. Phi hành đoàn này đã bay về lại đường băng chính của sân bay Utapao, cố gắng hạ cánh, nhưng lại ngóc mũi lên để rồi đâm đầu xuống đất. Đại tá Bill Maxon, chỉ huy lực lượng bảo trì sân bay Utapao quan sát cảnh chiếc B-52 (mang mật hiệu Ash 02) này vượt qua tháp Charlie (Đài chỉ huy Không lưu Utapao) ở ngang tầm mắt, bay chậm đến mức Maxson cảm thấy như máy bay đang chìm xuống, nó tròng trành như đứng lại ở độ cao khoảng 150 feet (45m) so với mặt đất, nhưng ở phía trước nó không còn đường băng nào. “Tôi chỉ đơn giản là không thể mô tả nỗi kinh hoàng mà tôi cảm thấy khi tôi nhìn thấy đèn điều hướng ở cánh bắt đầu quay, động cơ chợt tắt ngấm, và máy bay này rơi lộn đầu xuống đất ngay gần cuối đường băng. Sau nhiều giờ gắng sức của phi hành đoàn để đưa con chim sắt bị bắn này về nhà an toàn, với tất cả những nỗ lực của lực lượng bảo trì mặt đất để cứu nó, chúng tôi đã thua cuộc. Tôi đã từng chứng kiến những chiếc B-52 và những máy bay khác bị rơi trước đây, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy đau khổ, bất lực và tuyệt vọng như vậy vì không làm gì được để hỗ trợ phi hành đoàn kiên gan này”.

QĐND ONLINE