MẶC AI "THEO DÕI" TÔN GIÁO VIỆT NAM VẪN TỰ DO ĐỂ ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC!

Ngày 2-12-2022, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đã công bố quyết định đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về quyền tự do tôn giáo. Việc Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách quan cũng như các thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Việt Nam sẵn sàng trao đổi với Mỹ trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, đóng góp vào thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước", đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định.

Trong 5 năm qua (2017-2022), Ủy ban Tư do tôn giáo quốc tế Mỹ, vẫn định kỳ ra báo cáo thường niên về tự do tôn giáo toàn cầu. Họ cho mình quyền, nhận xét, đánh giá phê phán về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo của Việt Nam và một số Quốc gia khác. Họ sử dụng thông tin tài liệu cũ từ các nhóm, phái tôn giáo chưa được nhà nước công nhận, số chức sắc cực đoan bất mãn với chế độ, định kiến với Đảng, Nhà nước để tiếp nhận thông tin không chính xác đưa vào báo cáo đánh giá; khuyến khích cổ vũ cho các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, không cần xin phép, đăng ký chính quyền, thúc đẩy các hoạt động “tà đạo, đạo lạ” ở các vùng sâu, vùng xa gia tăng hoạt động mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục, trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Giáo hội và xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, với âm mưu muốn giáo dân chống đối chính quyền, họ kích động với luận điệu, đây là quyền con người “quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do tôn giáo”; đồng thời lợi dụng mạng xã hội, Feebok, Blog… hội luận xuyên tạc Luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, là “bước thụt lùi”; “bóp nghẹt tôn giáo” không phù hợp với công ước quốc tế về quyền con người”… Họ kiến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại những nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo (CPC) và “gây sức ép và hối thúc Việt Nam cho phép tất cả các nhóm, phái tôn giáo chưa được công nhận hoạt động một cách tự do; giảm can thiệp của chính quyền vào các công việc nội bộ của các nhóm tôn giáo đã được công nhận và nhấn mạnh tiến bộ về tự do tôn giáo có ý nghĩa quan trọng đối với việc cải thiện quan hệ song phương”.

Nhưng đó là việc làm của những tổ chức, nhân thiếu thiện chí với Việt Nam, còn sự thật thì …

Điều 18 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị nêu rõ: “Quyền tự do của cá nhân thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng của mình chỉ phải chịu các giới hạn chẳng hạn như các giới hạn được luật pháp quy định và các giới hạn cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự, sức khỏe xã hội, hay tinh thần hoặc các quyền cơ bản và quyền tự do của những người khác”. Như vậy, quyền tự do tôn giáo hay bất cứ một quyền nào khác trên phương diện pháp lý đều bị giới hạn bởi khuôn khổ luật pháp.

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Ở Việt Nam có những tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hoà Hảo, Cao đài…) song hành cùng các tôn giáo du nhập từ bên ngoài (Công giáo, Phật giáo, Tin lành…). Mặc dù được ví là “thư viện tôn giáo”, nhưng ở nước ta, các tôn giáo luôn luôn giữ mối đoàn kết và tôn trọng niềm tin tôn giáo lẫn nhau, đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi tôn giáo có đức tin và hệ thống giáo lý, giáo luật, nghi thức tôn giáo riêng, là đặc trưng để phân biệt tôn giáo này với tôn giáo khác. Nhưng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các tôn giáo vẫn có điểm tương đồng, Người viết: “Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho mọi người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết”.

Theo thống kê hiện nay có tới 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân; 60 cơ sở đào tạo tôn giáo thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa Hảo. Đến năm 2018, có 7.102 tổ chức, cơ sở tôn giáo đang sử dụng tổng diện tích 14.850 ha đất. Hiện có 12 báo, tạp chí liên quan đến tôn giáo, phần lớn các tổ chức tôn giáo đều có website riêng; trong 5 năm (2015-2019) có hơn 3.000 ấn phẩm tôn giáo được xuất bản với hơn 10 triệu bản in, hàng triệu đĩa CD, DVD về tôn giáo bằng nhiều ngôn ngữ. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức ở Việt Nam, như: Đại lễ Phật đản VESAK, 500 năm Cải chánh đạo Tin lành, v.v. Điều đáng nói là, tự do tôn giáo của các dân tộc thiểu số luôn được bảo đảm: năm 2017, Giáo hội Phật giáo Việt Nam xây dựng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Cần Thơ; ở Bình Phước và Tây Nguyên có 33 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành đang sinh hoạt tại 304 chi hội và hơn 1.300 điểm nhóm; ở Tây Bắc có 693 điểm nhóm Tin lành, 8 Hội thánh cơ sở được thành lập; nhiều điểm nhóm của người dân tộc thiểu số theo Hội thánh Lutheran, Hội Liên hữu Baptist Việt Nam đã đăng ký sinh hoạt tập trung. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động đã xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo đậm chất nhân văn tôn giáo và trách nhiệm với đất nước, dân tộc. Cùng với phát triển về tổ chức, đăng ký hoạt động cho các tôn giáo đủ điều kiện, số lượng tín đồ và các hoạt động tôn giáo cũng không ngừng gia tăng. Tính đến tháng 9/2019, Việt Nam có 25,1 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số, 55.710 chức sắc, 145.721 chức việc. Các tổ chức tôn giáo ra đời một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, khẳng định Việt Nam không phân biệt giữa người có hay không có tín ngưỡng, tôn giáo; không phân biệt hay kỳ thị bất kỳ tôn giáo nào dù nội sinh hay được truyền từ nước ngoài, dù là tôn giáo đã ổn định lâu dài hay mới được công nhận.

Bên cạnh những giá trị đạo đức, các tôn giáo còn có hệ thống những lễ hội rất phong phú. Trước đây, việc tổ chức và tham gia lễ hội là công việc nội bộ giáo hội và tín đồ trong đạo. Ngày nay, rất nhiều lễ hội tôn giáo không còn là chuyện riêng của từng tôn giáo mà nó có sức lan toả, ảnh hưởng lớn trong cộng đồng xã hội như Lễ Giáng sinh, Phục sinh của đạo Công giáo, đạo Tin lành; Lễ Phật đản, Vu lan của Phật giáo; Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung của Hội thánh Cao đài Tây Ninh… Chẳng hạn như Lễ Giáng sinh của đạo Công giáo, xưa kia Giáng sinh là dịp để các chức sắc, nhà tu hành và những con chiên tưởng niệm, hân hoan chào đón thời khắc Chúa Jesu ra đời. Trước ngày Giáng sinh, các tín đồ trang trong trí nhà cửa, hang đá thật đẹp để chào đón Chúa ra đời. Trong đêm Giáng sinh, cộng đoàn tín đồ tập trung về nhà thờ để đọc kinh, cầu nguyện, hát ca mừng Chúa Giáng sinh. Ngày nay, ở Việt Nam, lễ Giáng sinh hay lễ Noel, đã vượt ra khỏi giáo đường của đạo Công giáo. Lễ Noel dần dần trở thành một sinh hoạt cộng đồng. Trong đêm Giáng sinh, người theo đạo vẫn thực hành những nghi thức, nghi lễ truyền thống của đạo Công giáo, còn người ngoại đạo tập trung đi xem lễ. Cũng trong đêm Noel, trẻ con háo hức chờ đợi để được Ông già Noel tặng quà; nhiều gia đình rủ nhau mở tiệc liên hoan; bạn bè tổ chức gặp mặt uống cà phê, hát karaoke; các bà, các chị cùng nhau đi mua sắm (hầu hết các siêu thị, trung tâm thương mại thường hạ giá trong dịp Giáng sinh)… Đặc biết nhất là trong dịp lễ Giáng sinh, các đôi tình nhân thường hẹn hò, nói những lời yêu thường, âu yếm tặng những món quá thật ý nghĩa…

Sự lãnh đạo quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo và cộng đồng chức sắc, tín đồ đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc, điều đó không chỉ thể hiện sự chăm lo toàn diện của Đảng, Nhà nước đối với đời sống tôn giáo, mà ở đó còn là sự tin tưởng, kỳ vọng của đông đảo chức sắc, tín đồ về đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng qua những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc. Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.

Một trong những đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam đó là tính dung hoà: người Việt luôn luôn muốn sống hoà hợp với tự nhiên, dung hoà với xã hội và con người. Mặc dù là một đất nước đa tôn giáo, nhưng với tính cách dung hoà vốn có từ ngàn xưa, người Việt không có tư tưởng kỳ thị hoặc chia rẽ tôn giáo. Do vị trí địa lý đặc biệt, nên từ xa xưa, Việt Nam trở thành nơi giao thoa của các nền văn hoá trong khu vực và trên thế giới. Mỗi khi có luồng tư tưởng mới, có một tôn giáo mới du nhập, truyền bá vào nước ta, ông cha ta thưởng giữ tâm thế “lấy tĩnh chế động” để quan sát và “gạn đục khơi trong”, tiếp nhận những tinh hoa của nó, đồng thời Việt hoá để nó phù hợp với tâm lý xã hội, thuần phong, mỹ tục Việt Nam. Có lẽ với đặc tính đó, mà ngày nay, chúng ta rất dễ dàng nhận thấy, ở hầu hết các lễ hội tôn giáo, ngoài sự hiện diện của tín đồ, còn có rất nhiều người dân, thậm chí là tín đồ của các tôn giáo khác cũng đến xem lễ, thăm quan, du lịch, tìm hiểu văn hoá-tín ngưỡng… Bức tranh tôn giáo đa dạng đã góp phần làm giàu cho đời sống tinh thần của người Việt, những giá trị đạo đức, nhân văn của các tôn giáo, những công trình kiến trúc, những tác phẩm văn học, nghệ thuật về đời sống tôn giáo… cùng với hệ thống lễ hội tôn giáo đã tạo nên bức tranh muôn màu của văn hoá Việt Nam

Lễ Giáng sinh chỉ là một trong số hàng ngàn lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong một năm ở Việt Nam. Thực tế không khí sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong các tầng lớp nhân dân những năm qua ngày càng sôi động và có chiều hướng gia tăng. Cứ nhìn vào các lễ hội tôn giáo, các buổi lễ trọng của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian cũng có thể nhận rõ, những sinh hoạt này không chỉ là sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng trong các cộng đồng của đồng bào có đạo mà còn đang trở thành ngày hội thu hút đông đảo người dân tham gia. Ðiều đó cho thấy Ðảng và Nhà nước đã luôn tạo mọi điều kiện để nhân dân được tự do tham gia các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng. Việc đa dạng các hoạt động tôn giáo là minh chứng cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã và đang được bảo đảm. Không chỉ đối với đồng bào theo đạo Công giáo, quy mô và hoạt động tôn giáo của đồng bào theo các tôn giáo khác cũng ngày càng tăng và diễn ra sôi động, đời sống tâm linh của người dân luôn được chính quyền quan tâm.

Bình Nguyên – Hương Giang