CẦN HIỂU RÕ HƠN VỀ TỔ CHỨC ĐẠI DIỆN NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI CƠ SỞ

Ngày 20/11/2019, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi), có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2021, trong đó quy định cho phép thành lập “tổ chức đại diện người lao động” tại doanh nghiệp ngoài công đoàn, trên cơ sở phù hợp với các quy định quốc tế về lao động và tuân thủ các hiệp định thương mại tự do mới mà Việt Nam đã tham gia.

Theo khoản 3, Điều 3 Bộ Luật Lao động 2019: Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của người lao động tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Theo điểm 3, khoản 1, Điều 5 Bộ luật Lao động 2019: Quyền của người lao động (NLĐ) được thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện NLĐ, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ, thương lượng tập thể với người sử dụng lao động (NSDLĐ) và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lơi ích hơp pháp, chính đáng của mình; tham gia quản lý theo nội quy của NSDLĐ.

Đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch hay lợi dụng để bịa đặt, bôi xấu Việt Nam; vu cáo Việt Nam không thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong các hiệp định thương mại quốc tế như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA); Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), vi phạm các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Bên cạnh đó, lợi dụng quy định này, các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu đang ra sức tuyên truyền, lôi kéo, kích động công nhân, người lao động trong các doanh nghiệp thành lập “tổ chức đại diện người lao động” nhằm biến tướng thành các tổ chức “công đoàn độc lập” tại Việt Nam; từng bước tập hợp lực lượng, xây dựng ngọn cờ, kích động biểu tình, đình công, đòi tự do, dân chủ… Âm mưu của chúng là nhằm hình thành lực lượng chính trị đối lập trong nội địa, tiến tới thực hiện “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” lật đổ Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ chính trị tại Việt Nam.

Để thực hiện ý đồ trên, một số tổ chức “xã hội dân sự” nước ngoài đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền thành lập tổ chức độc lập với TLĐLĐVN tại các doanh nghiệp. Họ tìm cách gây sức ép, buộc các doanh nghiệp phải thực hiện một số chế độ, chính sách, quyền lợi ngoài quy định của doanh nghiệp và Bộ luật Lao động; yêu cầu cung cấp thông tin về người lao động, bảng lương; lấy lý do điều tra xã hội học phục vụ công tác nghiên cứu để tìm hiểu đời sống công nhân tại doanh nghiệp, chế độ, giờ giấc làm việc, việc đối xử của doanh nghiệp với công nhân…; lồng ghép điều khoản yêu cầu phía doanh nghiệp Việt Nam phải cam kết đồng ý thành lập ban tư vấn cải tiến doanh nghiệp (PICC) từ 8-16 người (một dạng tổ chức “công đoàn độc lập”). Ngoài ra, nhiều cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng đang tìm cách tác động, can thiệp, gây sức ép với Việt Nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các nghị định hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động, nhất là Nghị định quy định về quy trình, thủ tục thành lập các tổ chức đại diện người lao động, hòng tạo tiền đề cho việc hình thành những đảng phái chính trị đối lập trong nước. Chúng công khai lộ trình gồm 4 giai đoạn: (1) Yêu cầu Việt Nam sớm ban hành Nghị định quy định về tổ chức đại diện người lao động; (2) từng bước tác động để người lao động thay đổi nhận thức và đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình thông qua tổ chức đại diện người lao động; (3) hình thành tổ chức “Công đoàn độc lập” để tạo ra sự cạnh tranh với Công đoàn Việt Nam; (4) khi đa nguyên công đoàn thì Việt Nam sẽ đa nguyên về chính trị. Mục tiêu trước mắt được chúng đặt ra là đến năm 2025 sẽ xuất hiện mô hình “Liên hiệp các tổ chức người lao động” tại Việt Nam để cạnh tranh trực tiếp với TLĐLĐVN, xóa bỏ vai trò “độc tôn” của TLĐLĐVN.

Các tổ chức phản động ráo riết đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền lôi kéo công nhân, người lao động thành lập các hội, nhóm, tổ chức bất hợp pháp trên lĩnh vực lao động, công đoàn tại các địa phương nhằm đón bắt thời cơ thành lập “Công đoàn độc lập”  tại Việt Nam. Điển hình như trên trang Web https://www.bbc.com/vietnamese/forum-60463661 có đưa bài: Cần có nghiệp đoàn độc lập cạnh Công đoàn của nhà nước Việt Nam trong đó có đề cập Việt Nam cần có những nghiệp đoàn độc lập bên cạnh Công đoàn Việt Nam để tăng cường bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Những nghiệp đoàn độc lập không phải là kẻ thù hay mối nguy cho Công đoàn mà là thành phần bổ túc quan trọng để góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập, nghiệp đoàn có vai trò của như thông báo cho người sử dụng lao động về những khó khăn, bất bình của người lao động, nghiêp đoàn phải cố gắng sắp xếp các cuộc gặp mặt trực tiếp để thiết lập mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động…Hầu hết các nhà công nghiệp không quan tâm đến việc cung cấp các phương tiện và điều kiện làm việc thích hợp cho người lao động, họ quan tâm hơn đến việc hoàn thành công việc tới mức tối đa. Trong trường hợp đó, nghiệp đoàn phải thay mặt người lao động đấu tranh đòi hỏi ban quản lý phải cung cấp cơ sở vật chất cần thiết…Đây là những luận điệu lôi kéo mong muốn đẩy nhanh tiến độ để thành lập công đoàn đối lập nhằm tập hợp, hình thành lực lượng chính trị đối lập dưới vỏ bọc các tổ chức “công đoàn độc lập” ở Việt Nam. Những hoạt động trên đã làm gia tăng nguy cơ xuất hiện các tổ chức “công đoàn độc lập”, “nghiệp đoàn độc lập” biến tướng ở Việt Nam. Đồng thời, cũng làm xuất hiện nguy cơ “đa nguyên công đoàn”, gây chia rẽ, phân hóa giai cấp công nhân, đe dọa trực tiếp đến vai trò lãnh đạo của Đảng.

Xu thế tất yếu của việc thể chế hóa tổ chức đại diện người lao động

Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã đàm phán và gia nhập nhiều FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA)… Trong những thỏa thuận thương mại thế hệ mới này đã quy định các nước thành viên có trách nhiệm thành lập các tổ chức đại diện người lao động và đề ra lộ trình thực hiện đối với một số quốc gia.

Theo lộ trình đã cam kết, Việt Nam có thời gian chuẩn bị 5 năm kể từ ngày CPTPP có hiệu lực (2018-2023) sẽ phải cho phép thành lập các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp và 7 năm (2018-2025) để cho phép tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp có thể liên kết với nhau thành lập tổ chức của người lao động ở cấp cao hơn như cấp ngành, cấp vùng theo đúng trình tự đăng ký được pháp luật quy định một cách công khai, minh bạch. Đây rõ ràng là một thách thức rất lớn đặt ra đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, công đoàn ở Việt Nam.

Ở nước ta chưa có tiền lệ về hệ thống tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp tồn tại song song với Công đoàn Việt Nam, điều đó đặt ra nhiều khó khăn trong công tác quản lý nhà nước. Nếu coi các tổ chức này thuộc “loại hình tổ chức công đoàn khác” thì cần phải xem xét lại một số quy định của pháp luật hiện tại nhằm bảo đảm bình đẳng, không phân biệt, đối xử giữa các loại tổ chức công đoàn. Chính vì vậy, việc xây dựng, ban hành các quy định của pháp luật về tổ chức đại diện người lao động ở nước ta là một xu thế tất yếu, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, vừa phát huy thuận lợi từ việc gia nhập các EVFTA, vừa bảo đảm chủ quyền, lợi ích quốc gia trong bối cảnh hiện nay.

Đồng thời, thể chế hóa tổ chức đại diện người lao động góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, khắc phục mâu thuẫn giữa luật pháp nước ta với “luật chơi” quốc tế. Trên thực tế, để hiện thực hóa các cam kết, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm nội luật hóa các cam kết về lao động, công đoàn trong các EVFTA. Đặc biệt, Bộ luật Lao động năm 2019 đã công nhận sự ra đời và hoạt động hợp pháp của tổ chức người lao động tại doanh nghiệp. Trong đó, các quy định cụ thể về tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở được nêu tại chương XIII, với 9 điều (từ Điều 170 đến Điều 178). Những quy định trong Bộ luật Lao động 2019 đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và thực hiện cam kết về lao động, công đoàn trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia.Quy định này thể hiện rõ quan điểm về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động của Đảng, Nhà nước Việt Nam, đồng thời giúp người lao động có thêm cơ hội được lựa chọn thành lập, gia nhập hoặc tham gia các tổ chức đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Từng bước thể chế hóa về “tổ chức đại diện người lao động”

Nhận thức được tính tất yếu của việc cho phép thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, ngay từ Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Đảng ta đã xác định “Bảo đảm sự ra đời, hoạt động của tổ chức của người lao động  tại doanh nghiệp phù hợp với quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, kiện toàn các công cụ, biện pháp quản lý nhằm tạo điều kiện để tổ chức này hoạt động thuận lợi, lành mạnh theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với các nguyên tắc của tổ chức Lao động quốc tế, đồng thời giữ vững ổn định chính trị - xã hội”.

Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 12-6-2021 của Bộ Chính trị về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới nêu rõ: “Quản lý tốt sự ra đời, bảo đảm hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, có các biện pháp phù hợp, hiệu quả để thu hút, vận động, định hướng tổ chức này gia nhập Công đoàn Việt Nam. Tăng cường tuyên truyền để người sử dụng lao động, công nhân, người lao động nhận diện các hành vi lợi dụng việc thành lập và hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp để xâm phạm an ninh quốc gia, gây mất an ninh trật tự”.

Vì vậy, trong thời gian tới, để đảm bảo việc thực hiện những thỏa thuận trong các EVFTA, đồng thời đáp ứng đầy đủ quyền của người lao động, trước hết cần tập trung vào một số vấn đề sau:

Một là, cần phải bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động có liên quan đi kèm với các nghị định, thông tư hướng dẫn đầy đủ, cụ thể. Quá trình thực hiện các cam kết phải xuất phát từ đặc điểm tình hình của doanh nghiệp và công nhân Việt Nam, cũng như đặc điểm của từng địa phương, từng ngành, từng loại hình doanh nghiệp và nhóm lao động. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các cơ quan, ban ngành hữu quan cần sớm hoàn thiện, triển khai Đề án đổi mới cơ cấu tổ chức, mô hình hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Trong đó, tập trung vào giải pháp như: thí điểm, phát triển các mô hình, tổ chức công đoàn cơ sở trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, nhất là ở các tập đoàn kinh tế tư nhân, tổng công ty Nhà nước thoái vốn, các doanh nghiệp có cùng chủ sử dụng lao động; mô hình công đoàn cơ sở ghép nhiều doanh nghiệp, cơ quan theo ngành, nghề trên cùng địa bàn; mô hình tập hợp người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Hai là, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cần kiến nghị sửa đổi Luật Công đoàn năm 2012 nhằm triển khai các cam kết quốc tế trên lĩnh vực lao động, công đoàn theo hướng bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề quyền công đoàn phù hợp với thể chế chính trị và Hiến pháp. Các quy định mới cần bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khả thi nhằm đáp ứng tối đa yêu cầu quản lý, phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả sự biến tướng của tổ chức người lao động và những nguy cơ, hệ lụy.

Ba là, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng các cơ quan, ban, ngành cần xây dựng, hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định về tổ chức của người lao động vừa bảo đảm yêu cầu hội nhập quốc tế, vừa đáp ứng quyền của người lao động, đồng thời không tạo kẽ hở cho các phần tử xấu lợi dụng thành lập “công đoàn độc lập” có những hoạt động phức tạp về an ninh, trật tự.

Ngoài ra, cần xây dựng, ban hành quy trình thẩm định hồ sơ xin thành lập, giải thể và phối hợp quản lý nhà nước đối với hoạt động của tổ chức đại diện người lao động. Bảo đảm phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan trong giám sát hoạt động của các tổ chức đại diện người lao động, nhất là trong quản lý, giám sát dòng tiền tiếp nhận và thu, chi tài chính, mối quan hệ với các tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động phức tạp. Đồng thời, phải xây dựng quy định nhằm quản lý chặt chẽ hoạt động của “nhóm tư vấn trong nước” tham gia các FTA, bảo đảm các ý kiến tư vấn phù hợp pháp luật Việt Nam, tương thích với hoạt động quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực lao động, công đoàn.

Có thể thấy, việc cho phép thành lập tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp ngoài công đoàn là tất yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, đây sẽ là vấn đề tiềm ẩn phức tạp về an ninh quốc gia. Trường hợp để các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bị hướng lái, biến tướng thành các “công đoàn độc lập” hoặc “nghiệp đoàn độc lập” sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của công đoàn, là mầm mống hình thành tổ chức đối lập ở Việt Nam. Bởi vậy, hơn lúc nào hết chúng ta cần tỉnh táo, cảnh giác để nhận diện và đấu tranh với thủ đoạn nguy hiểm này. Cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho công nhân, người lao động nắm rõ mục đích, ý nghĩa việc tham gia Công đoàn, đồng thời nhận diện âm mưu của kẻ xấu lợi dụng việc kêu gọi thành lập các tổ chức công đoàn độc lập, giúp công nhân tẩy chay, loại trừ.

Phạm Ngọc Thành