Hãy nhớ lấy lời tôi

Ngày 15-10-2017 này vừa đúng 53 năm ngày Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi hy sinh(15/10/1964-15/10/2014).

Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi sinh ngày 1/2/1940 tại làng Thanh Quýt, nay là xã Điện Thắng Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Anh là người thông minh, nhanh nhẹn, siêng năng, học giỏi, được thầy yêu, bạn mến.

 

 

 Chân dung Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi

Tuổi thơ của Nguyễn Văn Trỗi trải qua nhiều vất vả, từng phải đi làm thuê kiếm sống. Sau đó, anh theo người nhà đến vùng đất Đà Nẵng lao động và tranh thủ học nghề thợ may. Hè năm 1956, Nguyễn Văn Trỗi một mình vào Sài Gòn sinh sống. Ở đây, anh vừa làm thuê để kiếm sống, vừa học nghề điện, sau đó trở thành công nhân Nhà máy điện Chợ Quán.

Khoảng giữa năm 1963, Nguyễn Văn Trỗi gia nhập tổ chức, trở thành một chiến sỹ biệt động Sài Gòn, bước vào đời hoạt động cách mạng, luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Đầu năm 1964, anh được cử đến căn cứ Rừng Thơm (Long An) học tập một số chiến thuật đánh giặc. Anh đã sớm nhắm một số mục tiêu như: Cư xá Mỹ ở đường Cao Thắng, tàu hải quân Mỹ đóng ở Bạch Đằng… Có lần anh đã ném lựu đạn làm chết và bị thương mấy tên địch.

Biết tin phái đoàn quân sự cấp cao của Mỹ do Mắc Namara - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu sẽ đến Sài Gòn thị sát chiến trường vào tháng 5/1964, lực lượng của ta liền vạch kế hoạch tiêu diệt Mắc Namara. Với tình yêu quê hương và lòng căm thù giặc sâu sắc nên mặc dù mới cưới vợ được hơn mười ngày, Nguyễn Văn Trỗi vẫn xung phong nhận nhiệm vụ, cùng đồng đội tiến hành cài mìn ở cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi, Thành phố Hồ Chí Minh) - nơi dự đoán là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mác Namara cùng phái đoàn Mỹ từ sân bay Tân Sơn Nhất về trung tâm Thành phố Sài Gòn sẽ đi qua. Tuy nhiên, khi Nguyễn Văn Trỗi cùng đồng đội mới đặt được quả mìn nặng 8 kg ở cạnh cầu Công Lý, đang chuẩn bị nốt một số công việc còn lại thì không may việc bị bại lộ, anh bị giặc bắt.

Để đảm bảo an toàn hoạt động và tính mạng cho đồng đội, Nguyễn Văn Trỗi kiên quyết không khai mà còn nhận trách nhiệm về mình. Sau một thời gian giam giữ, tra tấn, kẻ thù đưa Nguyễn Văn Trỗi ra xử tại tòa, rồi kết án tử hình. Những ngày cuối cùng của cuộc đời, trước giây phút bị quân thù xử tử, anh vẫn không ngừng đấu tranh với kẻ địch, luôn lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Biết tin Nguyễn Văn Trỗi đang chờ ngày thi hành án tử hình ở Sài Gòn, cảm phục trước khí phách chiến đấu của anh, du kích Vênêduêla bắt một trung tá Mỹ ngay trên đường phố Thủ đô Caracat để trao đổi, giải thoát cho anh và tuyên bố nếu chính quyền Việt Nam Cộng hòa xử tử Nguyễn Văn Trỗi, lập tức trung tá Mỹ sẽ bị bắn chết. Tuy đã có sự thỏa thuận, nhưng khi trung tá Mỹ vừa được thả ra thì chính quyền Việt Nam Cộng hòa trở mặt, lật lọng. Chúng hèn hạ xử bắn anh tại trường bắn Khám Chí Hòa, Sài Gòn sáng ngày 15-10-1964.

Nguyễn Văn Trỗi không chỉ hành động bất chấp hiểm nguy cài mìn ở cầu Công Lý năm 1964 mà còn thể hiện ý chí hiên ngang và niềm tin sắt đá đến giây phút cuối của đời mình trên pháp trường. Anh đã không chấp nhận rửa tội mà còn khẳng định” chính bọn Mỹ, Ngụy mới là kẻ có tội, là thủ phạm gây ra cảnh xóm làng tan nát, cảnh lầm than chết choc, cảnh con mất cha, vợ mất chồng”. Trong thời gian ở tù, dù chịu bao nhiêu cực hình tra tấn dã man, anh vẫn luôn giữ vững khí tiết  người cộng sản; không khai báo, phản bội, tìm mọi cách bảo vệ cơ sở bí mật của Đảng và tìm mọi cách vượt ngục để được tiếp tục chiến đấu. Nhiều lần, anh nói thẳng vào bọn cai ngục: “Còn giặc Mỹ thì không ai có hạnh phúc cả”. Câu nói ấy không chỉ gây xúc động trong tuổi trẻ và nhân dân ta mà cả tuổi trẻ và nhân dân tiến bộ trên thế giới.

 

 

 Bức ảnh Nguyễn Văn Trỗi trên pháp trường hô vang khẩu hiệu

Tuy biết trước sẽ bị tử hình nhưng  Nguyễn Văn Trỗi vẫn luôn lạc quan, yêu đời, tỏ rõ khí phách hiên ngang của người cộng sản không sợ chết. Những hình ảnh 9 phút cuối cùng của anh Trỗi trên pháp trường ngày ấy đã làm dấy lên làn sóng yêu thương, kính phục tấm gương hy sinh anh dũng của anh, đồng thời căm thù giặc sâu sắc. Trên pháp trường, dù đã cận kề cái chết, nhưng anh Trỗi vẫn bình thản, hiên ngang, không một chút nao núng. Hình ảnh cuối cùng của liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi do một nhà quay phim người Nhật chụp được khi anh giật phắt tấm khăn bịt mắt và nói: “Tôi không có tội, kẻ có tội cần phải trừng trị là bọn xâm lược Mỹ và lũ Việt gian Nguyễn Khánh”.

Trước khi bị bắn, anh Trỗi đã hô to: “Hãy nhớ lấy lời tôi! Đả đảo đế quốc Mỹ! Hồ Chí Minh muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Ca ngợi tinh thần hy sinh dũng cảm của anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì Tổ quốc, vì nhân dân, liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống đế quốc Mỹ đến hơi thở cuối cùng. Chí khí lẫm liệt của anh hùng Trỗi là một tấm gương hy sinh cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước, nhất là cho các cháu thanh niên học tập”.

Sự hy sinh anh dũng của Nguyễn Văn Trỗi là một tấm gương sáng cho hàng triệu trái tim người yêu nước Việt Nam và bạn bè trên thế giới yêu chuộng hòa bình, bênh vực công lý; góp phần cổ vũ, tăng thêm nghị lực đấu tranh của các anh em đang bị tù đày; khơi dậy ở lớp thanh niên ngày ấy ý chí chiến đấu gan dạ hơn, sôi sục hơn. Lời hô của anh tại pháp trường như tiếng kèn xung trận, thôi thúc, khích lệ cả nước hăng hái xung phong sẵn sàng đánh giặc. Học tập gương chiến đấu của Nguyễn Văn Trỗi, khắp cả nước dấy lên phong trào thi đua, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ cứu nước. Lớp lớp thanh niên trên mọi miền đất nước noi gương anh, đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, xông pha ra mặt trận chiến đấu, góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với những hy sinh, cống hiến cho quê hương, đất nước, năm 1964, Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam truy tặng Nguyễn Văn Trỗi danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng và Huân chương Thành đồng hạng nhất. Năm 1995, Đảng và Nhà nước ta truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho anh.

Một ngày sau khi anh Trỗi bị bắt, chị Phan Thị Quyên-vợ anh cũng bị bắt giam. Trong thời gian bị giam giữ, chị Quyên mới thực sự hiểu công việc của chồng và đồng đội, cũng như hiểu vì sao anh Trỗi tham gia chiến đấu, sẵn sang hy sinh để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Theo lời kể của chị về “những lần gặp gỡ cuối cùng” giữa chị với anh Trỗi từ khi bị giam cho đến khi bị xử bắn, nhà văn Trần Đình Vân đã viết lại trong cuốn sách “Sống như anh” và chuyển ra miền Bắc in, phát hành. Ngày 20-7-1965, cuốn sách được Nhà xuất bản Văn học xuất bản lần thứ nhất với 302.000 cuốn.

Tấm gương hy sinh bất khuất của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi còn trở thành cảm hứng sáng tác trong nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, gây xúc động lòng người như bài thơ: Hãy nhớ lấy lời tôi của Tố Hữu, bài hát Lời anh vọng mãi ngàn năm của Vũ Thanh. Đạo diễn Bùi Đình Hạc đã xây dựng 2 bộ phim tài liệu Anh Nguyễn Văn Trỗi sống mãi và phim truyện Nguyễn Văn Trỗi.  Cuốn bút ký Sống như anh của nhà báo Thái Duy (Trần Đình Vân) đã trở thành cuốn sách “gối đầu giường” của rất nhiều thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Cuốn sách được bạn đọc bình chọn là một trong ba cuốn sách có nội dung hay nhất năm 2002 và gần đây được xuất bản sang tiếng Tây Ban Nha… Tượng của Nguyễn Văn Trỗi được dựng lên ở một số công viên chính ở nhiều tỉnh ,thành phố. Tên anh được đặt cho nhiều con đường, cây cầu và trường học ở Việt Nam và nước ngoài. Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh đặt giải thưởng mang tên anh và một sân vận động ở Cuba cũng rất tự hào được mang tên anh- Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi.

53 năm ngày anh Trỗi hy sinh, nhưng không gì có thể làm phai mờ trong tâm trí người Việt Nam về anh và nhiều tấm gương anh hùng, quả cảm; sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì độc lập tự do, thống nhất vẹn toàn của đất nước Việt Nam muôn vàn yêu quý!