Ban hành Luật An ninh mạng là rất cần thiết

 

Sáng 29-5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 5, Quốc hội họp phiên toàn thể, thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật An ninh mạng. Mở đầu phiên họp, Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Võ Trọng Việt trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật An ninh mạng.

 

Việc ban hành Luật An ninh mạng là rất cần thiết

Chủ nhiệm Võ Trọng Việt nêu rõ, không gian mạng là môi trường đặc thù (phi truyền thống), có những yêu cầu, nội dung riêng về công tác quản lý Nhà nước về an ninh mạng, phòng ngừa, đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật An ninh quốc gia không thể quy định chi tiết, cụ thể đối với công tác quản lý Nhà nước và hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng. Còn Luật An toàn thông tin mạng lại chủ yếu tập trung điều chỉnh vấn đề bảo vệ an toàn thông tin mạng, tuy có một số quy định liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, nhưng chưa quy định đầy đủ, cụ thể nên không đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng. Hoạt động bảo vệ an ninh mạng có liên quan đến quyền con người, quyền công dân, nên việc ban hành văn bản dưới luật để điều chỉnh về an ninh mạng là không phù hợp với quy định của Hiến pháp. Do đó, việc ban hành Luật An ninh mạng là rất cần thiết, nhất là trong tình hình hiện nay.

Ngoài ra, Chủ nhiệm Võ Trọng Việt cũng cho hay, có một số ý kiến đề nghị không quy định về tác chiến trên không gian mạng và lược bỏ quy định về phòng, chống chiến tranh mạng, vì cho rằng thuộc lĩnh vực quốc phòng, là nhiệm vụ của quân đội. Về các ý kiến này, Chủ nhiệm Võ Trọng Việt nêu rõ: Chiến tranh mạng là tình huống đặc biệt xảy ra trên không gian mạng, không những xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn gây ra những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội. Nhiều nước trên thế giới đã có các quy định khác nhau về chiến tranh mạng, nhưng trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có quy định về vấn đề này. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cho giữ lại quy định về chiến tranh mạng và cho chỉnh lý như Điều 20 dự thảo Luật đã chỉnh lý. Theo đó, Bộ Quốc phòng chủ trì phòng, chống chiến tranh mạng.

Còn tác chiến trên không gian mạng là hoạt động chiến đấu bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, được giao cho Bộ Quốc phòng chủ trì, nên không quy định trong Luật này. Tuy nhiên, để tạo lập cơ sở pháp lý cho Công an nhân dân trong đấu tranh bảo vệ an ninh mạng, đồng thời phân biệt với hoạt động chiến đấu bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng của Quân đội nhân dân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho bổ sung Điều 22 như dự thảo Luật đã chỉnh lý. Theo đó, Bộ Công an chủ trì phối hợp với các bộ, ngành có liên quan thực hiện đấu tranh bảo vệ an ninh mạng.

Ban hành luật đáp ứng nhu cầu của thực tiễn

Đại biểu Bùi Mậu Quân (Hải Dương) nêu lên thực tiễn những năm gần đây, ngày càng xảy ra nhiều các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, gây bức xúc trong xã hội. Đó là các hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, như là hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo chống phá Nhà nước, hoạt động gián điệp, lấy cắp dữ liệu Nhà nước, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự an toàn xã hội; nổi lên là các hoạt động lừa đảo, trộm cắp, cờ bạc, cá độ...qua mạng, lấy cắp thông tin cá nhân, làm nhục, vu khống người khác qua mạng; tấn công mạng, chiếm quyền điều khiển hay chiến tranh mạng...  

Đại biểu Bùi Mậu Quân phát biểu ý kiến.

“Những thực trạng nêu trên đang là vấn đề bức xúc, nhức nhối đang diễn ra song việc xử lý còn rất bị động, lúng túng và hiệu quả không cao vì hệ thống pháp luật hiện chưa có hành lang pháp lý quy định đầy đủ, rõ ràng về các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng, về giải pháp phòng ngừa, đấu tranh cũng như chế tài xử lý nghiêm khắc để xử lý hiệu quả những hành vi vi phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng, nhiều vụ để lại hậu quả rất nặng nề”, đại biểu phân tích.

“Nếu hệ thống mạng máy chủ của các hãng hàng không quốc gia, hệ thống tài chính, ngân hàng, hay hệ thống thông tin điện tử của Đảng, Chính phủ... bị tấn công, chiếm quyền điều khiển thì hậu quả sẽ như thế nào?”, đại biểu đặt câu hỏi và nhấn mạnh sự cần thiết phải ban hành dự luật để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cấp thiết của tình hình thực tiễn.

An ninh mạng là nội hàm trong an ninh quốc gia và quốc phòng

Đại biểu Nguyễn Minh Sơn (Tiền Giang) quan tâm đến Nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng (Điều 4), Biện pháp bảo vệ an ninh mạng (Điều 5). Đại biểu đề nghị thống nhất quan điểm coi an ninh mạng là một nội hàm trong an ninh quốc gia và quốc phòng. Đại biểu nhấn mạnh: An ninh mạng phải có mối liên hệ mật thiết với an ninh, quốc phòng thì mới có thể giải quyết được các vấn đề liên quan, vì an ninh quốc gia có ý nghĩa rất lớn, bao trùm cả vấn đề quốc phòng và sự ổn định phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Nhấn mạnh sự bất khả xâm phạm về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bao gồm cả trên thực tế, thực địa và trên cả không gian mạng, đại biểu đề nghị dự thảo Luật cần làm nổi bật được ý nghĩa đó thì mới có cơ sở để quy định và thực hiện triển khai trong thực tế.

Đại biểu Nguyễn Minh Sơn phát biểu ý kiến. 

Quan tâm đến chính sách của Nhà nước về an ninh mạng (Điều 3), đại biểu đề nghị nghiên cứu bổ sung thêm một khoản về ưu tiên đào tạo phát triển nguồn nhân lực về an ninh mạng chất lượng cao, ưu tiên nghiên cứu phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh mạng. Bởi lẽ, theo đại biểu các đối tượng có trình độ cao về công nghệ thông tin có thể sử dụng siêu máy tính hoặc hệ thống máy tính để tấn công mạng có chủ đích, tấn công mạng phá hoại hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, tấn công mạng từ chối dịch vụ phân tán hoặc trong trường hợp chiến tranh mạng xảy ra.... Do đó, "việc ưu tiên đào tạo phát triển nguồn nhân lực về an ninh mạng chất lượng cao là nhằm bảo vệ vững chắc an ninh mạng của nước ta", đại biểu nhấn mạnh.

Có nên bỏ quy định đặt máy chủ tại Việt Nam?

Đại biểu Phạm Thị Thanh Thủy (Thanh Hóa) cũng tán thành sự cần thiết xây dựng dự luật trong điều kiện phát triển công nghệ thông tin và thích ứng với cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, đại biểu đề nghị cần cân nhắc một số điều khoản để tránh sự chồng chéo không cần thiết về quản lý Nhà nước, tránh đặt ra quá nhiều rào cản, đặt thêm gánh nặng tuân thủ cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ, làm cản trở sự sáng tạo, hạn chế sự thụ hưởng lợi ích, dịch vụ chính đáng của người dân.

Theo đó, đại biểu tỉnh Thanh Hóa cho rằng việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức ngoài nước khi cung cấp dịch vụ trên không gian mạng tại Việt Nam phải đặt trụ sở hoặc văn phòng đại diện được quy định tại Việt Nam (Điều 26) là khó khả thi, không phù hợp với thực tiễn, làm gia tăng chi phí của doanh nghiệp, gây khó khăn cho các hoạt động tiếp cận thông tin của người dân Việt Nam trong trường hợp các doanh nghiệp nước ngoài không thực hiện việc đặt trụ sở hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam.

Đại biểu phân tích: Hiện nay, các máy chủ của một số dịch vụ mà người Việt Nam hay sử dụng thường xuyên như Google, Facebook đều được đặt tại nước ngoài... Từ thực tiễn này, đại biểu cho rằng việc quy định như trên tại Điều 26 nhằm quản lý máy chủ, quản lý dữ liệu người sử dụng tại Việt Nam là khó khả thi. Nếu các doanh nghiệp nước ngoài không tuân thủ quy định này thì có thể không được phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam, ảnh hưởng đến sự truy cập thông tin của người dân. Mặt khác, quy định này cũng không phù hợp với các cam kết mà Việt Nam đã ký kết. Do đó, đại biểu cho rằng vấn đề đặt ra phải là việc quản lý và chế tài ra sao; điều này cần được nghiên cứu và thiết kế trong dự luật.

Không đồng tình với quan điểm trên, đại biểu Nguyễn Hồng Vân (Phú Yên) cho rằng, việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức ngoài nước khi cung cấp dịch vụ trên không gian mạng tại Việt Nam phải đặt trụ sở hoặc văn phòng đại diện được quy định tại Việt Nam là cần thiết. Thực tế, Facebook đã đặt văn phòng đại diện tại khoảng 80 nước, hay Google cũng đã đặt văn phòng đại diện ở 70 địa điểm trên thế giới... Việc này ảnh hưởng đến chủ quyền của quốc gia, do đó, đại biểu cho rằng, việc quy định các nhà cung cấp thiết bị phải đặt trụ sở hay văn phòng đại diện tại Việt Nam sẽ bảo đảm chủ quyền của đất nước ta, đồng thời việc quản lý thông tin, dữ liệu sẽ được hiệu quả hơn.

THẢO NGUYÊN